Yêu nghề, mến trẻ sẽ ở lại được với vùng cao

Không quá lời, khi gọi những giáo viên ở vùng cao là những “chiến sỹ cầm bút, cầm phấn”, bởi nếu không yêu nghề, thương trẻ, thì khó trụ được ở những nơi được gọi tên “khó khăn đặc biệt” này... Thời điểm này, cả nước đang hướng về Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, tôi lại càng cảm nhận sâu sắc hơn những nỗ lực vượt qua gian khó, tất cả vì sự nghiệp trồng người của các thầy, cô giáo nơi vùng cao Bắc Yên.

Gian nan đưa chữ lên ngàn

Thời tiết huyện vùng cao Bắc Yên thật lạ, sáng sớm vẫn là cái lạnh đặc trưng với những lớp sương trắng dày bao phủ khắp những ngọn núi. Trưa đến, nhiệt độ tăng dần lên và nắng ấm. Chiều buông cũng là lúc những đợt gió kéo theo hơi lạnh và sương mù tràn về. Trời tối hẳn lại là khoảnh khắc của những lớp sương trắng bạc giăng khắp nơi cùng với cái lạnh rúm người... Tôi đến với vùng cao Bắc Yên vào một ngày như thế.

Các xã vùng cao của Sơn La quanh năm sương mù bao phủ.

Khi biết tôi có ý định lên một số xã đặc biệt khó khăn của Bắc Yên, mà một trong những đích đến là bản Nậm Lộng, xã Hang Chú và bản Làng Sáng, xã Háng Đồng, một thầy giáo điện thoại, bảo: “Vừa mưa tối qua, không lên được đâu, nhất là bản Nậm Lộng, đến xe ô tô hai cầu cũng phải nằm chờ chứ chưa nói đến xe máy cuốn xích. Còn nếu cần quá thì đi bộ chắc phải gần ngày đường mới tới nơi. Phải chờ 2 hôm có nắng mới vào được”.

Từ thị trấn Bắc Yên, để đến được trung tâm xã vùng cao Hang Chú còn gần 50 km đường đèo dốc với những khúc cua tay áo. Các thầy giáo dặn “Mùa này sương mù nhiều sẽ khuất tầm nhìn, mặt đường trơn, nên đi đường phải hết sức chú ý, khi vào cua phải bấm còi báo hiệu...”.

Thầy, cô giáo phải cuốn xích vào bánh xe để đi lại trên những con đường đất trơn trượt.

Mặc dù chặng đường lên với xã Hang Chú đã trải nhựa từ mấy năm trước, nhưng do thời gian và xe tải qua lại, nhiều đoạn đã bị xuống cấp, phải mất hơn 3 tiếng đồng hồ nghiêng ngả cùng những con dốc, đoạn đường đá với ổ trâu, ổ gà cùng những khúc cua phủ đầy sương mù kèm mưa phùn, tôi mới đến được trung tâm xã.

Bên ấm trà Tà Xùa với hương thơm đặc trưng, trò chuyện với thầy giáo Đặng Văn Đon, Hiệu trưởng Trường phổ thông dân tộc bán trú tiểu học xã Hang Chú, hơn 24 năm xa gia đình để “gieo chữ” ở vùng cao. Thầy giáo Đon kể: Đa phần các thầy cô giáo ở các xã vùng cao đều phải xa gia đình. Thậm chí, có nhiều trường hợp, chồng dạy ở một xã, vợ dạy ở một xã mấy chục năm liên tục.

Nhiều vùng cao Sơn La, thầy cô giáo vẫn phải đi lại vào mùa mưa trên những con đường đất.

Cô giáo Hà Thị Hưng, giáo viên Trường phổ thông dân tộc bán trú THCS xã Hang Chú, chia sẻ thêm: Em đã gần 14 năm liên tục công tác tại xã khó khăn thuộc các huyện trong tỉnh. Mấy năm đầu phải nhờ chồng hoặc đồng nghiệp làm “xe ôm”. Giờ đã tự đi được xe máy, nhưng thời gian đi lại vẫn dài hơn nam giới.

Trao đổi thêm về khó khăn, cô giáo Lường Thị Tươi, Phó Hiệu trưởng Trường mầm non Bình Minh xã Hang Chú, nói: Nhà trường có 100% giáo viên là nữ, việc đi lại của các cô rất vất vả. Nhất là tại điểm bản như Nậm Lộng vẫn là đường đất, nhà trường phải căn cứ vào hoàn cảnh gia đình, tinh thần xung phong để phân công giáo viên vào đó cắm bản. Cô giáo Cà Thị Kim ở trong bản đã ba tuần chưa ra ngoài trung tâm được vì mưa. Nhiều lúc cũng muốn gọi điện thoại động viên cô giáo nhưng trong đó lại không có sóng.

Tình cờ trong chuyến công tác này, tôi gặp lại thầy giáo Mùa A Nhè tại điểm trường bản Háng Đồng C, xã Háng Đồng sau 13 năm. Thầy Nhè là người đã có 25 năm công tác xa nhà và thường xuyên ở các điểm bản khó khăn, trong đó đã 5 lần cắm bản tại Làng Sáng, xã Háng Đồng vào những thời điểm khó khăn nhất, khi muốn đến Làng Sáng, chỉ có thể đi bộ.

Thầy giáo Mùa A Nhè chia sẻ: Ngày đầu nhận nhiệm vụ, khoác ba lô bám gót Trưởng bản đi bộ 2 ngày đường, tối mịt mới đến được bản Làng Sáng. Đấy là mình đi còn nhanh, chứ bình thường phải 3 ngày mới đến nơi. Cảm giác đi mãi, đi mãi, chùn hết cả chân mà vẫn đang ở giữa rừng của ngày đầu lên nhận nhiệm vụ đến giờ vẫn không thể quên. Chúng tôi cứ 2 năm thay nhau lên cắm bản ở Làng Sáng. Quả thực, nhiều lúc cũng thấy sờn lòng bởi những khó khăn, vất vả khi lên dạy học trên này, nhưng nghĩ lại nếu ai cũng ngại khổ rồi từ bỏ thì tương lai của trẻ em trên này sẽ ra sao. Trước đây khi chưa có đường bê tông, vào mùa khô thì tuần về thăm gia đình được một lần. Còn mùa mưa có khi cả tháng trời không về được.

Quá “niên hạn vùng cao”

 

Cùng với những khó khăn không thể kể hết bằng lời về chặng đường “gieo chữ” của các thầy cô giáo vùng cao, tôi lại được gặp những thầy, cô giáo được coi là quá “niên hạn vùng cao”. Nếu theo quy định, chỉ 3 năm với nữ và 5 năm đối với nam công tác tại vùng khó khăn sẽ được đề nghị điều chuyển đến vùng thuận tiện. Song, vì nhiều lý do, có những thầy, cô giáo đã mười mấy năm liên tục, thậm chí là trên 20 năm vẫn bám trụ với vùng cao. Đồng nghĩa với việc, các thầy, cô luôn phải sống xa gia đình và sự hy sinh đó thật lớn lao.

Thầy giáo Dương Duy Tấn, Hiệu trưởng Trường phổ thông dân tộc bán trú THCS xã Hang Chú sinh ra và lớn lên ở quê hương “5 tấn” Thái Bình. Sau khi tốt nghiệp đại học, được phân công về công tác tại xã Hang Chú từ năm 2003, thời điểm đó, để lên xã phải đi bộ 3 ngày. Sau 6 năm dạy học ở Hang Chú, thầy Tấn tiếp tục được điều chuyển lên xã Hua Nhàn, 3 năm sau lại điều chuyển về Háng Đồng và 9 năm sau, thầy trở lại xã Hang Chú, nơi công tác đầu tiên.

Thầy Dương Duy Tấn tâm sự: Ngày mới nhận công tác, tôi nghĩ sẽ phấn đấu 5 năm ở vùng cao rồi xin về gần gia đình. Nhưng khi lên với học trò nơi đây, cùng tập thể giáo viên nhà trường miệt mài “gieo chữ”, thoắt cái đã hết 5 năm. Tôi cũng muốn về lắm, vì sống cảnh xa gia đình thiếu thốn đủ thứ. Tuy nhiên, còn nhiều người có hoàn cảnh khó khăn hơn mình, nên lần lữa chưa xin về vùng thuận tiện. Bây giờ đã sang năm thứ 19 bám trụ ở các xã vùng cao khó khăn.

Cũng giống như thầy Dương Duy Tấn, thầy giáo Đỗ Văn Toại, Phó Hiệu trưởng Trường phổ thông dân tộc bán trú THCS xã Hang Chú đã công tác tại vùng cao hơn 22 năm và đã quá “niên hạn vùng cao” từ rất lâu. Vợ chồng thầy giáo Toại đều là giáo viên, nhưng vợ hiện dạy ở thị trấn Bắc Yên, việc chăm sóc hai con đều “nhường” hết cho vợ và người thân. Trước khi được điều chuyển lên Hang Chú, thầy giáo Toại đã có hơn 20 năm công tác cũng đều tại xã vùng cao và khó khăn.

Thầy giáo Đỗ Văn Toại (bên trái) đã có hơn 22 năm công tác ở vùng cao, vùng khó khăn.

Thầy giáo Toại bảo: Gia đình tôi có 7 người đều là giáo viên và đều đã từng dạy học ở các vùng khó khăn. Có quãng thời gian hai vợ chồng đều là giáo viên cắm bản, nên lúc thì chồng, khi thì vợ phải mang con trai đầu đi hết vùng này đến vùng khác thuộc các xã vùng cao, vùng dọc sông Đà. Cũng bởi theo bố mẹ ăn ở và học tập ở vùng cao nhiều năm liên tục, nên con trai của thầy Toại biết nói cả tiếng dân tộc Mông.

Qua tìm hiểu được biết, tại các xã vùng cao của huyện Bắc Yên có rất nhiều trẻ em thuộc các độ tuổi khác nhau phải theo bố mẹ là giáo viên lên ăn ở và học tập. Như trường hợp của cô giáo Hoàng Thị Thùy Nhâm, 7 năm qua là giáo viên Trường phổ thông dân tộc bán trú tiểu học Hang Chú. Cô giáo Nhâm quê ở Thanh Sơn, Phú Thọ, là một trong số nhiều người đã quyết định cho con gái lên ở và học lớp 1 tại Hang Chú để tiện chăm sóc.

Khi tôi hỏi, có ý định xin về Phú Thọ cho gần gia đình không, cô giáo Nhâm trầm ngâm: Thực ra em cũng có không ít cơ hội chuyển về gần nhà, nhưng mỗi lần có sự lựa chọn là những lần phải suy nghĩ, trăn trở rất nhiều, vì trường còn thiếu giáo viên và thương học sinh nơi đây còn nhiều khó khăn, nên đã quyết tâm ở lại.

Cũng như thầy Tấn, thầy Toại, cô Nhâm, cô giáo Phàng Thị Kếnh, giáo viên mầm non, Trường mầm non xã Tà Xùa, huyện Bắc Yên, đã có 18 năm “gieo chữ” tại các bản đặc biệt khó khăn của huyện Bắc Yên. Quãng thời gian cô giáo Kếnh cắm bản, trong đó có bản Làng Sáng, cũng là thời điểm phải xa gia đình, “nhường” hết phần việc chăm sóc gia đình, con cái cho chồng. Cô bộc bạch: Đa phần nhà các cô giáo ở dưới huyện, khi lên vùng cao dạy đã là vất vả rồi, 1 tuần chỉ về nhà được 1 lần. Còn lên bản vùng sâu, vùng xa, thì khó khăn gấp nhiều hơn thế. 18 năm trong nghề, hầu như em ở lại trường với học sinh. Nhà em có 2 con, cả tháng về nhà được mấy lần, chồng cũng bận công việc nên việc chăm sóc các con cũng khó khăn. Nhiều đêm nằm nhớ nhà, nghĩ đến cảnh một mình chồng chăm con chỉ biết khóc thầm. Có lần 2 con ốm nằm viện, em phải xin nghỉ dài ngày, lớp học trên bản cũng phải nghỉ theo.

Thay lời kết

 

Ông Mùa Páo Tủa, Bí thư Đảng ủy xã Hang Chú, thông tin: Cũng bởi yêu nghề, yêu trò, gần gũi với nhân dân và giải quyết được nhiều việc khó, nên các thầy, cô giáo công tác lâu năm ở đây luôn được đồng bào tin tưởng. Nhiều khi tại các bản có việc vướng mắc chỉ cần nhờ tới các thầy phối hợp cùng tuyên truyền là giải quyết được.

Trong chuyến công tác lên với các xã vùng cao của huyện Bắc Yên lần này, vẫn còn đó nhiều điều chưa thể diễn tả hết về câu chuyện “gieo chữ” của các thầy, cô giáo. Nhưng có một điểm chung nhất mà tôi cảm nhận là các thầy cô luôn yêu nghề, yêu trẻ và khó khăn, gian khổ không thể làm họ sờn lòng. Tôi mãi không quên hình ảnh một cô giáo trẻ vùng cao, sáng sớm địu con mấy tháng tuổi trên lưng, vội vàng lên đường cho kịp giờ dạy tại một điểm trường lẻ, rồi trở về đời thường, một mình cơm nước, chăm sóc con nhỏ, khi đêm xuống, sương bắt đầu rơi nặng hạt, cái lạnh thấu xương, thì cũng là lúc cô giáo lại miệt mài với trang giáo án chuẩn bị cho buổi học ngày mai... Khi tôi hỏi, điều gì giữ chân cô ở lại, cô cười: “Yêu nghề, mến trẻ sẽ ở lại được với vùng cao”...

Quốc Tuấn
BÌNH LUẬN

Bạn còn 500/500 ký tự

Bạn vui lòng nhập từ 5 ký tự trở lên !!!

Tin mới