Nghĩa vụ chung về tài sản vợ, chồng

Câu hỏi tình huống 1: Chúng tôi kết hôn với nhau hơn 10 năm, trong quá trình sinh sống đã vay tiền gần 200 triệu đồng do vợ tôi đứng tên vay tiền, nếu chúng tôi li hôn thì số tiền đó xử lý như thế nào?

Trả lời tình huống: 

Thứ nhất, về việc chỉ có vợ bạn đứng tên trong hợp đồng vay

Điều 24, Luật Hôn nhân và Gia đình 2013 Căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng

1. Việc đại diện giữa vợ và chồng trong xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch được xác định theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.

3. Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan.

Như vậy, nếu vợ chồng bạn có sự thỏa thuận về việc cho 1 người đứng tên trong hợp đồng vay thì khoản tiền này vẫn được xác định là tài sản chung của vợ chồng.

Thứ hai, về nghĩa vụ trả nợ của vợ chồng

Điều 37, Luật Hôn nhân và Gia đình 2013 quy định về Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng.

“Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:

1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ, chồng cùng phải chịu trách nhiệm;

2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;

3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;

4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;

5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;

6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.”

Như vậy, khoản nợ gần 200 triệu đồng của vợ chồng bạn hình thành trong thời kỳ hôn nhân, nên đây được xác định là nghĩa vụ chung của cả hai vợ chồng. Với khoản nợ này, cả vợ và chồng đều có trách nhiệm trả nợ. Đồng thời, nghĩa vụ trả nợ về nguyên tắc sẽ được chia đều cho hai vợ chồng.

Câu hỏi tình huống 2: Vợ chồng tôi sắp li hôn, trước đó chồng tôi có nợ một khoản tiền rất lớn và nói là tiền vay để làm ăn, nhưng số tiền đó tôi không hề biết. Vậy xin cho tôi hỏi, tôi có phải chịu trách nhiệm về khoản nợ này không?

Trả lời tình huống:

Theo quy định tại Điều 60, Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì khi ly hôn vợ, chồng có tranh chấp về nghĩa vụ của tài sản đối với người thứ 3 sẽ áp dụng quy định tại điều 27, 37 và 45 luật này:

1. Quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác.

2. Trong trường hợp có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ tài sản thì áp dụng quy định tại các điều 27, 37 và 45 của Luật này và quy định của Bộ Luật Dân sự để giải quyết.

Theo quy định tại Điều 37, Luật Hôn nhân và Gia đình về Nghĩa vụ chung tài sản của vợ chồng thì các nghĩa vụ sau đây sẽ dùng tài sản chung của cả hai để giải quyết:

1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;

2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;

3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;

4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;

5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ Luật Dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;

6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.

Ngoài ra, pháp luật cũng quy định tại Điều 27, Luật Hôn nhân và Gia đình về trách nhiệm liên đới của vợ chồng:

1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại Khoản 1, Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này.

2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này.

Trong trường hợp này, bạn không biết về việc chồng mình có vay tiền để làm ăn (nghĩa là không có sự thỏa thuận giữa 2 vợ chồng về việc vay nợ và sử dụng số tiền này) và việc vay tiền của chồng bạn cũng không phải là quan hệ đại diện giữa vợ và chồng theo quy định tại điều 24, 25, 26 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 nên tài sản chung của vợ chồng sẽ không được dùng để thực hiện nghĩa vụ đối với người thứ 3 theo quy định và khi ly hôn bạn sẽ không phải chịu trách nhiệm đối với khoản nợ riêng của chồng bạn.

Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 30, Luật Hôn nhân và Gia đình, nếu việc vay tiền của chồng bạn để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình theo nhận định của cơ quan Tòa án thì bạn cũng sẽ chịu trách nhiệm liên đới với khoản nợ này:

Điều 30. Quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình

1. Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.

Nếu tài sản vay nợ đó không nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì bạn không phải chịu trách nhiệm với số tiền này.

Tuy nhiên, trong quá trình tranh chấp xảy ra tại Tòa án và nếu như chồng bạn chứng minh được rằng đã có thỏa thuận với bạn về việc vay tiền và bạn có liên quan tới việc sử dụng số tiền này để làm ăn thì bạn sẽ phải chịu trách nhiệm trả nợ liên đới với chồng.

Tòng Minh (Trung tâm TGPL Nhà nước)

BÌNH LUẬN

Bạn còn 500/500 ký tự

Bạn vui lòng nhập từ 5 ký tự trở lên !!!

Tin mới