Phát huy truyền thống vẻ vang, khẳng định vai trò lãnh đạo - nhân tố quan trọng, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng tại Sơn La (*)

Mạng lưới cơ sở giáo dục phát triển rộng khắp; mỗi xã, phường, thị trấn có trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở và trung tâm học tập cộng đồng; đến năm 2020 toàn tỉnh có 597 cơ sở giáo dục, 2.279 điểm trường lẻ và 204 trung tâm học tập cộng đồng, trong đó có 1 trường đại học, 3 trường cao đẳng và 1 trường trung cấp nghề, 12 trung tâm giáo dục thường xuyên.

Công tác xã hội hóa giáo dục đã đạt được những kết quả quan trọng, nhất là huy động các nguồn lực để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học, mở trường và đóng góp kinh phí cho giáo dục (phát triển giáo dục ngoài công lập: Toàn tỉnh hiện có 15 trường mầm non, 31 nhóm trẻ mầm non, 1 trường tiểu học, 13 trung tâm tin  học, ngoại ngữ; với 10.561 học sinh, học viên; 545 cán bộ, giáo viên, nhân viên; tổng kinh phí đầu tư 420,560 tỷ đồng). Cơ sở vật chất trường lớp học được quan tâm đầu tư theo hướng chuẩn hóa, từng bước hiện đại: Tổng số phòng học mầm non, phổ thông hiện có 13.171 phòng; tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 64,8%, về cơ bản đạt tỷ lệ 1 phòng/1 lớp và đảm bảo được dạy học 2 buổi/ngày ở các cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học, các trường phổ thông dân tộc nội trú.

Giờ học nghề tại Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh.

Ảnh: Phạm Đức

Đến hết năm 2020, toàn tỉnh có 268/597 trường mầm non, phổ thông đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 47,9%. Duy trì kết quả phổ cập giáo dục; tỉnh Sơn La hoàn thành mục tiêu đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào tháng 12/2014, được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 1 vào tháng 12/2010. Tỷ lệ người trong độ tuổi 15-25 biết chữ mức độ 1, đạt 98,10%; tỷ lệ người trong độ tuổi 15-35 biết chữ mức độ 1, đạt 97,44%; tỉ lệ người trong độ tuổi 15-60 biết chữ mức độ 1: 96,70%; có 01/12 huyện đạt tiêu chuẩn xóa mù chữ mức độ 1; 11/12 huyện, thành phố đạt tiêu chuẩn xóa mù chữ mức độ 2.

Tỷ lệ huy động trẻ mầm non đến trường toàn tỉnh năm học 2019-2020 đạt 70%; tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo đạt 98,6%; tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99,81%; tỷ lệ tốt nghiệp THCS đạt 99,9%; tỷ lệ học sinh vào THPT đạt 70,61%; tỷ lệ tốt nghiệp THPT: 95,75%.

Sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân được quan tâm chăm lo đúng mức; mạng lưới cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế được đầu tư nâng cấp. Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình, vệ sinh an toàn thực phẩm, công tác y tế dự phòng, chế độ bảo hiểm y tế được triển khai thực hiện ngày một hiệu quả, góp phần cải thiện chất lượng chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, nhất là các đối tượng chính sách, người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, người dân tộc thiểu số, người cao tuổi, giảm thiểu các bệnh xã hội. Số giường bệnh trên 10.000 dân đạt 29,2 giường năm 2020. Số bác sĩ trên 10.000 dân tăng từ 3,85 bác sĩ năm 2004 lên 8,51 bác sĩ năm 2020. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể cân nặng giảm từ 31,6% năm 2004 xuống còn 19,4% năm 2020; thể chiều cao giảm từ 38% năm 2004 xuống còn 32,3% năm 2020. Tỷ lệ xã đạt bộ tiêu chí quốc gia về y tế tăng từ 01 xã năm 2004 (đạt tỷ lệ 0,5%) lên 179 xã năm 2020 (đạt tỷ lệ 87,75%). Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế tăng từ 83,27% năm 2004 lên 95,88% năm 2020.

Hiệu quả hoạt động khoa học - công nghệ được nâng cao, cơ chế quản lý được đổi mới. Tăng cường ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học vào quản lý, giảng dạy, khám chữa bệnh và sản xuất, ứng dụng công nghệ mới, vật liệu mới, tiết kiệm tài nguyên, góp phần tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp, chế biến và bảo quản hàng hóa nông sản. Triển khai thực hiện đề án hỗ trợ xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm chính của tỉnh.

Các chính sách, chương trình giảm nghèo và an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh đã được triển khai kịp thời, có hiệu quả và đúng đối tượng thụ hưởng, góp phần quan trọng trong việc phát triển sản xuất, ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, mức sống và thu nhập của các hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện rõ rệt, phúc lợi xã hội và đời sống của các đối tượng chính sách được nâng lên. Tỷ lệ hộ nghèo có xu hướng giảm qua từng năm; tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a năm 2020 còn 23,57%; tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số năm 2020 còn 22,59% so với tổng số hộ dân tộc thiểu số.

Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” được đẩy mạnh, huy động được nhiều nguồn lực, mang lại hiệu quả thiết thực, thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Thực hiện đầy đủ, kịp thời chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; tỷ lệ hộ gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống khu dân cư đạt 100%; đến hết năm 2019, tỉnh đã hoàn thành 100% việc hỗ trợ người có công với cách mạng về nhà ở, trong đó xây mới 5.532, sửa chữa 6.034 nhà.

Quốc phòng được đảm bảo; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; quan hệ hợp tác với các tỉnh Bắc Lào, các tổ chức quốc tế được mở rộng, góp phần quan trọng vào ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội.

(Còn nữa)

Nguồn: Ban Tuyên giáo tỉnh ủy

 

(*) Đầu đề do Tòa soạn đặt

BÌNH LUẬN

Bạn còn 500/500 ký tự

Bạn vui lòng nhập từ 5 ký tự trở lên !!!

Tin mới